Trong Rừng Cây Xiêm Gai (Tiểu truyện Revata tôn giả)

02/03/2016 | Chuyên mục: VĂN . 1536 Lượt xem

RevataThuở ấy, lúc đang còn ở Rājagaha, nghe tin thân phụ mất, đại đức Sāriputta tức tốc bộ hành về quê; ngài để năm trăm tỳ-khưu ở rải rác trong các rừng cây rồi một mình trở lại thăm nhà. Ðây đó vắng tanh. Sân gạch thênh thang phủ một lớp rêu dày. Cả một cơ ngơi khang trang, vĩ đại chỉ mới mười mấy năm mà đã có vẻ điêu tàn, hoang phế. Ngài tần ngần, đứng lặng. Một chú bé chừng sáu, bảy tuổi chạy ra, tôn giả biết đấy là Revata, em trai út của ngài.

– Này em! Ta là Upatissa đây!

Revata nhìn sững: “Ðây là anh trai cao cả, tôn quý của ta? Ðâu đâu người ta cũng thán phục, ca tụng ông anh vĩ đại này! Ồ! mà sao anh trai ta đẹp quá, uy nghiêm quá, lại dễ mến nữa!”

Revata chạy lại. Tôn giả thân mến ôm trẻ trong vòng tay, xoa đầu, mỉm cười hỏi:

– Em nhận ra ta chứ?

– Em nhận ra anh ngay! Anh yêu quý!

– Sau này em sẽ xuất gia như ta chứ?

– Vâng, em sẽ xuất gia theo anh. Không những xuất gia theo anh mà xuất gia theo cả các anh và các chị nữa.

Tôn giả mỉm cười gật đầu:

– Ừ, Em nói đúng! Giờ thì em nghe lời anh dặn đây: Phía tây ngôi làng này có mấy chục vị tỳ-khưu đang tu hạnh đầu-đà trong một khu rừng. Khi nào em muốn xuất gia thì hãy đến đấy, giới thiệu em là em trai của ta, họ sẽ vui vẻ nhận em vào giáo đoàn ngay. Em nhớ không?

– Dạ em nhớ! Em nhất định sẽ xuất gia trong khu rừng đầu-đà ấy.

Khi câu chuyện vừa dứt thì bà Sārī đã đứng bên ngưỡng cửa, tóc bà đã bắt đầu bạc, lưng còn thẳng nhưng trên tay lại cầm chiếc gậy trúc có hình đầu rắn.

– Ông về đây làm cái gì?

– Thưa mẹ!

Tôn giả cúi đầu.

Bà Sārī gắt:

– Thưa mẹ cái gì? Ai là mẹ của ông?

– Thưa mẹ! Con hay tin cha vừa mất!

Bà chống gậy, quay lưng đi:

– Mất cái gì! Ông chết nhăn răng, ông chết tức tưởi vì con cái bỏ đi theo ông Cồ Đàm hết, bỏ đi theo đám ăn xin đầu đường xó chợ hết!

Tôn giả lại cúi đầu, không dám nói một lời.

Revata nói:

– Sao mẹ lại mạt sát anh trai của con? Anh trai của con dù sao là một bậc vĩ đại, danh vọng nổi tiếng khắp toàn cõi châu Diêm-phù-đề này! Anh trai của con vì thương cha, nhớ mẹ mà về thăm! Anh trai con im lặng, vòng tay, cúi đầu như vậy, có dám nói gì đâu mà mẹ lại đối xử, ăn nói quá thậm tệ như thế?!

Tôn giả Sāriputta gắt em:

– Revata! Em không được nói với mẹ như thế!…
Tôn giả còn ở lại trong làng một ngày nữa, sau đó, ngài đi đến khu rừng đầu-đà, nơi có những tỳ-khưu đang sống hạnh tĩnh cư, cốt ý gởi gắm Revata rồi từ giã.

… Bà Sārī chống gậy nhìn theo hình bóng người con trai thân yêu, mắt già hoen lệ. Cả một cơ ngơi trù phú, thạnh mãn, đông vui mà bây giờ trở nên trống không, lạnh lẽo. Cả hàng trăm gia nô, kẻ hầu người hạ mà lúc nào bà cũng cảm thấy hoang vắng. Tiền rừng bạc bể, sơn hào hải vị cũng trở nên vô ích, nhạt thếch, vô vị…

Revata ra đứng bên cạnh bà, đôi mắt nó cũng nhìn ra hướng xa xăm. Ðộng tâm, bà Sārī nghĩ: “Hay là cái giọt máu cuối cùng này cũng không muốn nối truyền tông hệ? Nó nhìn anh trai trưởng của nó với đôi mắt đầy khâm phục và tôn kính! Nó đã cãi lại ta, bênh vực anh nó, và cảm mến cả lũ sa-môn đầu trọc nữa! Thôi phải rồi, nguy rồi! Ta phải cứu con trai út của ta! Ta phải cứu cho cả dòng họ Vaṅganta! Phải cưới vợ cho nó thôi! Revata bảy tuổi, ta sẽ cưới cho nó một cô gái chừng mười bốn mười lăm tuổi; và cô gái ấy sẽ thay ta kềm kẹp nó, ngăn giữ nó, không cho nó có ý nghĩ ngông cuồng chạy theo bọn không cửa không nhà! Gia sản phải có người gìn giữ, máu huyết phải có người tương tục, truyền thống phải có người kế thừa!”

Nghĩ là làm ngay. Ngày hôm sau, bà cho mời mấy người trưởng thượng trong quyến thuộc, trình bày lý do; sau đó, nhờ họ dò hỏi ở những gia đình cùng tập cấp và vai vế, cùng danh vọng và gia sản. Một cô gái mười bốn tuổi xinh đẹp được tìm ra. Lễ dạm hỏi được tiến hành nhanh chóng. Gia đình bà Sārī giàu có nên không cần của hồi môn của cô gái.

Revata còn bé quá nên không biết gì. Ðến ngày cử hành hôn lễ, cậu bé được mặc trang phục xinh đẹp, mang đồ trang sức quý giá, cùng với hàng trăm tùy tùng bước lên những cỗ xe sang trọng đi đến nhà gái. Revata được người ta cho biết là hôm nay cậu cưới vợ, và cô gái kia sẽ ăn ở với cậu trọn đời. Ðến đây thì cậu đã hiểu tuy còn rất mơ hồ.

Thân bằng quyến thuộc của hai họ tề tựu đông đủ. Cờ, đèn, hoa và màu sắc rực rỡ chỗ này chỗ kia làm cậu ta chóa mắt. Ðến giờ lành, giờ tốt, người ta cử hành lễ rước dâu. Cậu đứng bên một cô gái cao hơn cậu cả một cái đầu – mặt được trùm kín bởi một chiếc khăn mỏng – không thấy mặt mũi cô gái ra sao, chỉ nghe người ta nói là đẹp lắm!

Vị trưởng lão chủ hôn, thò tay trong bát nước, rảy nước lên hai người rồi công bố phúc lành:

– Cầu cho các con trăm năm tơ hồng thắm thiết. Cầu cho các con được phúc thọ khang ninh như bà ngoại của cô dâu vậy.

Sau lời cầu chúc tốt đẹp của hai họ, Revata tự nghĩ: Bà ngoại của nàng là ai vậy? Khi được biết rằng, đấy là một cụ bà sống một trăm hai mươi tuổi, răng rụng, tóc bạc, da nhăn đầy những vết đồi mồi, lưng còng như một cái kèo uốn cong giống cái giàn xay! Revata bèn thăm hỏi người hầu thân tín: “Này, cô dâu xinh đẹp trẻ trung của tôi, khi già thì trông cũng giống như bà ngoại của nàng chăng?” Người ta đáp: “Ðấy là điều dĩ nhiên. Bệnh, già, chết là định luật cậu ạ, chẳng ai tránh thoát được đâu!”

Khi sự thật đã được xác nhận, đã được thấy rõ, Revata kinh hãi, tự nghĩ: Ðấy có lẽ là sự thật mà các anh trai của ta, các chị gái của ta đã nhận thức nên họ đã từ bỏ gia đình để làm những vị nam sa-môn, nữ sa-môn. Vậy ngay bây giờ ta phải tìm cách, lập kế mà trốn đi kẻo không còn kịp nữa. Ta phải xuất gia!

Thế rồi trên đường trở về cùng với cô dâu trên chiếc xe hoa sực nức mùi hương, Revata chợt la lên:

– Hãy dừng xe lại một chút. Tôi bị đau bụng!

Revata bước ra khỏi xe, tất tả đi vào một đám cây rậm rạp, một lát, cậu chậm rãi trở lại. Lần thứ hai, lần thứ ba Revata cũng viện cớ như vậy.

Lần thứ tư, khi còn cách nhà không bao xa, Revata nói một cách rất tự nhiên:

– Rõ là cái bụng nó đang hành hạ tôi. Nhà cũng sắp đến rồi, vậy quý vị cứ chầm chậm cho xe đi trước, tôi sẽ theo kịp ngay tức khắc.

Không ai nghi ngờ gì cả, họ đánh xe đi. Revata đi vào một đám cây khuất bóng, rồi cậu co giò chạy một mạch vào hướng tây khu rừng. Trời gần tối, đói meo, mệt lả, cậu tìm ra ngôi rừng đầu-đà, nơi có ba mươi vị tỳ-khưu mà trước đây tôn giả Sāriputta đã dặn dò, gởi gắm.

Gặp họ, Revata đảnh lễ:

– Thưa chư đại đức! Hãy cho con xuất gia, hãy thâu nhận con vào tăng chúng.

– Này cậu bé! Một vị trưởng lão nói – với những trang sức quý giá và với những y phục cao sang, đẹp đẽ như vậy, không biết cậu bé là con vua hay cháu chúa làm sao chúng ta dám nhận vào tăng đoàn này, nơi những sa-môn sống đời ẩn cư khổ hạnh?

Nghe nói vậy, Revata chợt đưa tay ôm mặt ra vẻ buồn khổ rồi khóc than rằng: “Ôi! Khốn khổ cái thân tôi! Tôi đang bị cướp, tôi đã bị cướp không còn gì nữa cả!”

Chư vị trưởng lão ngạc nhiên:

– Này cậu bé! Ai cướp của cậu? Ai cướp của cậu khi trên người cậu từ y phục đến vật trang điểm như ông hoàng, bà chúa vẫn còn y nguyên?

Revata đáp:

– Không! Ý con không phải là bị cướp tư trang và y phục, những vật dụng vô tri và tầm thường ấy. Khi chư trưởng lão không cho con xuất gia, nghĩa là con đã bị cướp mất những giá trị tinh thần, bị cướp phước báu an lạc cõi người, cõi trời và cả cõi Niết-bàn!

Thấy câu trả lời có “trọng lượng nghìn cân”, chư vị trưởng lão bèn ôn tồn giải thích:

– Này cậu bé! Chúng tôi không phải làm khó! Vì chúng tôi không biết cậu là ai! Và quả thật, chúng tôi không dám để cho những trẻ sáu bảy tuổi xuất gia mà chưa có sự đồng thuận của gia đình – khi đức Thế Tôn đã chế định, như là một điều luật không thể khinh suất mà phá lệ được!

– Thưa quý ngài, con là em trai út của Upatissa.

– Upatissa là ai?

– Bạch ngài! Upatissa là tên của anh trai con thuở còn là gia chủ. Từ khi xuất gia đến nay, anh trai con có tên là Sāriputta!

Các vị trưởng lão, đại đức, thất kinh cùng đứng dậy:

– Sao? Ðúng là em trai tôn giả Sāriputta đấy chứ?

– Dạ đúng vậy! Anh trai con là Sāriputta, xuất thân trong gia đình trưởng giáo bà-la-môn, dòng họ Vaṅganta, con bà Sārī. Một ngôi làng phía đông, cách đây nửa ngày đường.

– Ðúng rồi, không hoài nghi gì nữa! Này cậu bé! Trưởng lão Sāriputta đã nhân danh trưởng bối trong gia đình có dặn bảo chúng tôi, chờ đợi cậu và làm lễ xuất gia cho cậu. Ngài là anh cả của chúng tôi, là thầy của chúng tôi, là cái mặt trời, mặt trăng mà chúng tôi hằng ngưỡng mộ!

Thế rồi, Revata được cởi ra những y phục sang trọng và tư trang quý giá, mặc vào mảnh y của người khất sĩ, làm lễ cạo tóc và xuất gia.

Một vị tỳ-khưu trong rừng đầu-đà bộ hành về Kỳ Viên tịnh xá báo lại sự việc cho tôn giả Sāriputta nghe. Ngài muốn đi thăm em, nhưng hôm đó đức Phật nói:

– Này Sāriputta! Bây giờ là chưa phải thời! Hãy kham nhẫn một thời gian!

Trong lúc ấy, sa-di Revata tự nghĩ: Nếu ta tiếp tục trú ngụ ở đây, dầu chỉ một ngày thôi, thì trước sau gì gia đình cũng tìm thấy.

Bèn xin đề mục thiền quán từ vị trưởng lão rồi mang y và bát, Revata khởi sự một chuyến du hành rất xa, ba mươi dặm đường, một mình vào trú trong khu rừng xiêm gai, là nơi hoang vu, cằn cỗi, xa vắng xóm làng. Revata nhập hạ ở đây trong ba tháng mùa mưa, đi trì bình rất xa ; và do nhờ tinh cần chỉ tịnh và quán minh mà Revata đã thành tựu được mục đích của sa-môn hạnh cùng với những thắng trí của bậc thượng nhân!

Đến lúc ấy, đức Phật mới nói với tôn giả Sāriputta:

– Bây giờ là phải thời, Như Lai sẽ cùng ông đi thăm sa-di Revata.

Ðại chúng hay tin, chư phàm tăng không ngớt bàn tán, cho rằng đức Thế Tôn thiên vị vì Revata là em trai của bậc Tướng quân Chánh pháp. Họ nói:

– Chúng ta hãy xem! Một chú sa-di bảy tuổi, lại ở cách xa biết bao dặm đường, thế mà đức Thế Tôn phải đích thân đi thăm viếng, hẳn là một sự kiện hy hữu!

Biết được tâm ý của một số tỳ-khưu như vậy, nhưng đức Thế Tôn không nói gì, ngài bảo tôn giả Sāriputta tập hợp đại chúng rồi lên đường. Khi đến một ngã ba, tôn giả Mahā Moggallāna cho đại chúng dừng chân lại rồi thưa trình với đức Phật rằng:

– Có hai con đường dẫn đến khu rừng cây xiêm gai của sa-di Revata. Con đường tốt được bảo vệ, có dân cư và nhà cửa đông đúc, dài sáu mươi do-tuần. Một con đường xấu, không được ai bảo vệ, nhiều phi nhân và ác thú, hoang vắng người và nhà cửa, nhưng rất ngắn, chỉ có ba mươi do-tuần. Vậy chúng ta đi con đường nào, bạch đức Thế Tôn?

Ðức Phật hỏi:
– Có Sīvali đi cùng đấy không, Moggallāna?

– Thưa có, có một số sa-di, trong đó có mặt sa-di Sīvali tháp tùng năm trăm tỳ-khưu.

– Vậy chúng ta đi con đường ngắn.

Đại đức Ānanda băn khoăn:

– Bạch đức Thế Tôn! Con đường hoang vắng này, không xóm nhà, không người ở thì làm sao đủ vật thực cho một hội chúng đông đúc?

– Này Ānanda! Ðức Phật nói – Ông đừng nên quá lo lắng như vậy, sẽ có nhân, duyên và báo nó tự động làm việc của nó mà.

Quả là con đường ngắn này thật hiểm trở, cheo leo, vất vả. Nhưng ngạc nhiên làm sao, con đường ấy hôm nay lại bằng phẳng, phong quang! Và cứ cách một do-tuần là có những căn nhà nghỉ to, rộng, thoáng mát. Nơi những căn nhà nghỉ đầu tiên, có những cư dân không biết ở đâu xuất hiện, ăn mặc sang trọng, mang những mâm vật thực sang trọng, tỏa ngát mùi hương đi tìm sa-di Sīvali và dâng cúng vật thực cho vị ấy.

Sa-di Sīvali lại bảo họ dâng cúng đến đức Thế Tôn và tăng chúng. Rồi suốt ba mươi do-tuần, đức Ðạo Sư, chư vị trưởng lão và đại chúng được nghỉ ngơi trong những cốc liêu tiện nghi và thọ dụng vật thực kỳ lạ như vậy.

Ðến khu rừng cây xiêm gai, sa-di Revata trang nghiêm, tề chỉnh ra đảnh lễ đức Thế Tôn và tăng chúng. Mọi người đưa mắt nhìn quanh, chẳng còn thấy đâu là khu rừng già đầy gai góc và hoang dã nữa. Kia là hương phòng dành cho đức Ðạo Sư đẹp đẽ như cung điện của cõi trời. Rải rác cả mấy khu rừng là hơn năm trăm chỗ ngụ có tháp nhọn, mỗi chỗ ở trang trọng như vậy được dành cho một vị tỳ-khưu! Ngoài ra có năm trăm con đường đi kinh hành có mái che xanh mát bởi dây leo và hoa nở; lại có cả năm trăm khu vực dành cho ban ngày và ban đêm…

Chư tăng không ngớt bàn tán, chỉ chỏ. Tôn giả Sāriputta ân cần nắm tay sa-di Revata:

– Đến bây giờ thì ta đã hoàn toàn mãn nguyện rồi, em có biết không, Revata?

Revata kính cẩn nắm tay anh, và biết rằng, mọi nhân, mọi duyên hôm nay mà được chín muồi đều do nhờ ân đức của người anh trai cao quý này.

Tại đây, đức Thế Tôn tán thán hạnh độc cư, thiền định, ca ngợi những nỗ lực tấn tu phạm hạnh của Revata, khuyên chư tăng nên lấy đó làm gương, làm cái đích để tiến hóa.

Trước khi rời khu rừng xiêm gai, đức Thế Tôn đã xóa tan mọi nghi hoặc trong tâm của đại chúng:

– Này các thầy tỳ-khưu! Suốt ba mươi do-tuần, tất cả tiện nghi và vật thực trên đường cùng những món ăn thượng vị ở đây đều của chư thiên và thọ thần – họ là thí chủ của sa-di Sīvali. Đều là phước báu của sa-di Sīvali cả!

Im lặng một lát, đức Thế Tôn đứng dậy, nắm tay sa-di Revata rồi nói rằng:

– Còn đây là con trai của Như Lai, con trai thù thắng của Như Lai! Các thầy biết tại sao mà Như Lai yêu mến Revata như vậy không? Nếu biết chuyện của Revata thì trong các thầy, ai cũng phải yêu mến và đều muốn đi viếng thăm Revata cả!

Này các thầy tỳ-khưu! Mặc dầu mới bảy tuổi nhưng Revata đã phải lên xe hoa với cô dâu. Thế nhưng, khi sắp về đến nhà, Revata đã tìm cách trốn đi, nhịn đói, nhịn khát vượt qua con đường dài, đến khu rừng đầu-đà với quyết chí xuất gia. Ngày hôm sau, sa-di Revata đã vội vã lên đường làm một cuộc bộ hành xa xăm hơn nữa, đến đây, với y và bát, an cư mùa mưa và khởi tâm đạt cho được quả vị A-la-hán. Thế rồi, cuối mùa mưa, sa-di Revata thành đạt được ý nguyện cùng với những thắng trí. Hương phòng của Như Lai, năm trăm chỗ ngụ có tháp nhọn, năm trăm đường đi kinh hành cùng mọi tiện nghi ăn ở khác, tất cả đều do năng lực của sa-di Revata cả! Vậy các thầy có thấy đấy là sự kiện hy hữu không? Có phải do nhờ tinh cần tu tập mà có không, chẳng kể lâu năm hay ít năm, chẳng kể trẻ hay già?

Câu hỏi của đức Phật cũng chính là câu trả lời nên chư tăng đồng hoan hỷ cất tiếng “lành thay” thì chư thiên, thọ thần khắp núi rừng đồng loạt tán thán theo làm chấn động đến cả cõi trời.

Đức Phật lại ân cần hỏi ông thánh tí hon :

– Này Revata! Núi rừng hoang dã này là nơi trú ngụ của thú dữ như sư tử, hổ, báo, mãng xà, rắn độc… Thế con không sợ chúng sao?

– Thưa có sợ, nhưng sự sợ hãi ấy không ở lâu, do đệ tử chú tâm vào đề mục tu tập.

– Vậy là có sợ! Thế tại sao con không tìm đến gần những xóm làng cư dân ở, không có thú dữ để cắt đứt luôn sự sợ hãi ấy?

– Vì đệ tử thích ở núi rừng, bạch Thế Tôn!

– Tại sao?

– Vì ở đây, sợ hãi thoáng sinh rồi thoáng diệt; thời gian còn lại cả ngày và đêm, tâm đệ tử rất lặng lẽ và rất an bình!

– Tại sao ?

– Vì núi rừng không có cạnh tranh, đấu tranh, khẩu tranh. Núi rừng không có bóng dáng của ngũ dục lôi cuốn. Núi rừng luôn cô tịch, quạnh vắng nên rất thích hợp cho việc nội quán mà không bị các đối tượng nhiệt não bên ngoài chi phối, bạch Thế Tôn!

Đức Phật gật đầu, hoan hỷ nói :

– Đúng vậy, này con trai!

Rồi đức Phật đọc một câu kệ ngôn :

– Rừng sâu khả ái vô cùng
Chỗ người phàm tục ngại ngùng bước chân
Vì không tìm kiếm dục trần
Bậc ‘ly tham’ sống mười phần hân hoan!

Trong thời gian nửa tháng ở đây, có nhiều vị tỳ-khưu phàm tục với những cử chỉ thô tháo, ăn nói cãi cọ ồn ào làm cho một số chư thiên, thọ thần núi rừng khó chịu. Biết vậy, đức Phật từ giã, và hôm ấy, sa-di Revata cũng được tháp tùng đại chúng trở về Kỳ Viên.

Tuy nhiên, ở đây không bao lâu, vị sa-di này vẫn tìm cách vào ở núi rừng để theo hạnh độc cư. Khi tròn đủ tuổi, sa-di Revata được thọ đại giới.

Và vào dịp thuận tiện nhất, được đức Phật tuyên dương ngài là bậc đệ nhất độc cư rừng núi, qua câu kệ ngôn:

– Này các thầy tỳ-khưu! Trong số đệ tử của Như Lai, tối thắng ngụ trong rừng là tỳ-khưu Khadiravaniya Revata!

Danh vị ấy không phải là không có nguyên nhân. Đức Phật Gotama chỉ làm cái việc là trả lại đúng danh vị mà mù xa trong tiền kiếp, ngài Revata đã quỳ bên chân đức Chánh Đẳng Giác Padumuttara để phát nguyện mong thành tựu ước mơ ấy.

Thời gian sau, khi thấy đủ duyên, trưởng lão Revata về làng Nāḷaka mang theo ba người cháu, là con trai của ba người chị Cāla, Upacāla và Sīsupacāla – lúc ấy họ đều đắc quả A-la-hán cả – rồi cho xuất gia sa-di luôn. Trưởng lão đã chăm sóc ba cháu rất chu đáo nhất là trên phương diện tu tập.

Có lần, trưởng lão bị bệnh nặng ở trong rừng, tôn giả Sāriputta ghé thăm. Vừa thấy ông anh ở đằng xa, trưởng lão nói với ba cháu rằng :

– Hãy cố gắng niệm và tỉnh giác! Ông ‘đại sư cậu’ của các cháu là bậc ‘bắn chẻ sợi tóc’ đấy! Các cháu có biết thế chăng? Các cháu có hiểu không ?

Một vị đáp :

– Là tuệ phân tích của ngài rất sắc bén, như bắn chẻ sợi tóc vậy đó!

Trưởng lão Revata gật đầu :

– Đúng! Giỏi! Nhưng còn gì nữa ?

Vị khác đáp:

– Sư cậu dạy cố gắng niệm và tỉnh giác – là vì ‘ông đại sư cậu’ sẽ còn bắn chẻ tâm niệm của từng người nữa đó!

Nếu ai lơ là, thất niệm thì coi chừng!

– Đúng! Giỏi!

Rồi khi đến nơi, thấy thầy trò vắng lặng và an bình trong khung cảnh núi rừng tịch mịch, tôn giả Sāriputta đọc lại câu kệ của đức Phật khen ngợi hạnh sống ở rừng, tiện thể ngài đọc lên một câu kệ khác nữa :

– Thị phường, làng mạc, rừng sâu
Non cao, lũng thấp hoặc đâu mặc dù
Nơi nào bậc thánh ngụ cư
Ở đấy khả ái, an như tuyệt vời.

Hạnh độc cư và hành viễn ly của ngài âm thầm tỏa hương thơm dịu dàng đây đó. Hôm kia, có một cận sự nam tên là Atula dẫn một đoàn tùy tùng 500 người viếng thăm trưởng lão Revata và mong muốn được nghe pháp nhưng ngài chỉ giữ sự im lặng của bậc thánh. Tức bực, cận sự nam Atula bỏ đi, tìm gặp đức Sāriputta, kể lại chuyện bất bình của mình và lại muốn nghe pháp. Tôn giả Sāriputta lại nêu một vài điểm quan trọng trong Abhidhamma rồi cố gắng giảng giải khá lâu để hy vọng ông ta nhìn thấy được cái tâm của mình. Nhưng vô ích, Atula không hài lòng, lại dẫn đoàn tùy tùng đến viếng tôn giả Ānanda, lên giọng phê bình với ý rằng: Một vị thì im lặng, một vị thì giảng quá nhiều! Tôn giả Ānanda nghe vậy nên nói một thời pháp vừa phải, rành mạch, khúc chiết nhưng cũng bị Atula chê, bỏ đi! Cuối cùng, Atula tìm đến đức Phật tường trình lại ba cuộc hội ngộ trên, ngài bèn dạy ông ta rằng :

– Này cận sự nam Atula! Từ xưa đến nay, con người vẫn thường có thói quen hễ hợp ý mình thì khen, không hợp ý mình thì chê. Như Lai thuyết chân pháp, thật pháp cũng không tránh khỏi lời khen, tiếng chê của thế gian. Cho chí hư không, đại địa, mặt trời, mặt trăng… những chúng vô tình ấy đâu có khởi tư tác mà vẫn bị khen chê này nọ.

Này Atula! Bậc hiền trí khi khen thì khen ngợi điều đáng khen, khi chê thì chê trách điều đáng chê trách. Như vậy, khen cũng như chân như thật mà chê cũng như chân như thật.

Rồi đức Phật kết luận bằng mấy câu kệ ngôn:

– Nên biết, này Atula!
Đời này cũng vậy, đời qua khác gì
Ngồi im là bị chúng nghi
Nói nhiều liền bị chúng khi lắm lời
Nói vừa cũng bị chê cười
Nói ít vẫn bị miệng người thế gian
Cho hay, định luật bất toàn
Không đâu có kẻ được hoàn toàn khen
Hoàn toàn bị chúng chê gièm
Hoàn toàn chẳng có khen luôn, chê hoài!

Những khi có công việc tăng, trở về Kỳ Viên hay một hội chúng trú xứ nào, trưởng lão Revata cũng quen lối sống viễn ly thanh tịnh. Có một vị tỳ-khưu tên là Sammajjana (Sammuñjani?) thấy lúc nào trưởng lão cũng tĩnh cư thì cứ nghĩ rằng trưởng lão Revata ‘biếng nhác’. Hôm nọ, vào một buổi chiều, tỳ-khưu Sammajjana luôn tay quét dọn nơi này nơi khác, đến gần gốc cây, thấy trưởng lão Revata đang ngồi thiền, bực mình, vị tỳ-khưu này nói to lên rằng:

– Vị trưởng lão này lười nhác quá. Dùng vật thực của tín thí xong rồi, tìm ngồi yên chỗ này, tìm ngồi yên chỗ khác, cầm chổi quét dọn cũng không chịu làm.

Trưởng lão Revata tự nghĩ: Ta nên giáo giới vị tỳ-khưu nầy! Rồi cất giọng :

– Này hiền giả! Hiền giả hãy đi tắm xong rồi đến đây!

Sau đó, trưởng lão Revata giáo giới tỳ-khưu Sammajjana như sau:

– Tôi thấy hiền giả rất siêng năng quét dọn, quét dọn buổi sáng, quét dọn buổi trưa, quét dọn buổi chiều. Như vậy là suốt ngày hiền giả lăng xăng từ đống lá này rồi sang lăng xăng với đống rác khác. Có bao giờ, hiền giả minh sát, nội quán, xem thử cái tâm lăng xăng của mình chạy bắt từ đối tượng này sang đối tượng khác mà không chịu ở yên? Hiền giả có thể lăng xăng suốt ngày, nhưng có thể nào hiền giả có một thời, một khắc ngồi yên chưa ? Hay chỉ được một hai hơi thở là hiền giả cảm thấy khó yên, vội nhổm dậy chạy theo quán tính công việc của mình?

Thấy tỳ-khưu Sammajjana chăm chú lắng nghe, ngài giảng giải tiếp:

– Quét dọn sạch sẽ nơi này nơi kia, nhất là xung quanh liêu thất, bảo tháp, cội bồ-đề, sân vườn là một công đức, là một việc phải làm của một thầy tỳ-khưu có ý thức trách nhiệm. Tuy nhiên, việc ấy chỉ làm lúc phải thời, tức là vào buổi sớm trước khi đi trì bình khất thực. Rồi trong khi đi trì bình thì phải bỏ chuyện quét rác sang một bên, niệm và tỉnh giác trong từng hơi thở, từng bước chân; nếu có khởi tâm thì khởi tâm từ, tâm xả. Về lại chỗ trú cư, khi độ thực phải quán tưởng vật thực nuôi mạng ấy như thế nào? Buổi chiều và cả ban đêm phải dành trọn thì giờ cho bổn phận sa-môn hạnh; nghĩa là quán xét năm nhóm tạo nên ‘cái ta’ này là cái gì vậy? Phải minh sát miên mật sự sanh sự diệt của chúng, phải thấy được tam pháp ấn để đi vào đạo lộ vô sanh! Ấy mới xứng đáng là bổn phận chơn chính của một thiện gia nam tử cần cầu ly thoát mọi khổ ách trên trần thế! Vậy từ rày về sau, hãy tạo lợi ích thật sự cho mình, đừng phí thì giờ siêng năng quét dọn như thế! Đừng lấy cái phụ mà làm cái chính! Đừng lấy cái siêng năng quét rác ấy mà làm mục đích!

Sau buổi giáo giới ấy của trưởng lão Revata, tỳ-khưu Sammajjana nỗ lực tu tập, không bao lâu sau, ông ta chứng đắc A-la-hán quả. Cảm kích xiết bao, tỳ-khưu Sammajjana đến quỳ ôm chân bụi trưởng lão Revata, không nói nên lời.

Sau đó, trong tu viện, có nhiều chỗ rác ứ đọng, các vị tỳ-khưu nói với Sammajjana rằng :

– Này hiền giả! Có quá nhiều rác, nhưng tại sao mấy lúc sau này hiền giả không quét dọn siêng năng như thuở trước?

– Trước đây tôi buông lung, phóng dật, giải đãi… không ngồi yên được dù chỉ năm bảy hơi thở nên tôi phải kiếm cách lăng xăng quét dọn chớ có siêng năng gì đâu! Tôi đã tự khoác cho mình một ‘bản ngã công việc’, lúc nào tôi cũng viện cớ công việc chớ có hay ho gì đâu!

– Bây giờ hiền giả ngồi yên được, không quét dọn nữa, có nghĩa là hiền giả không còn buông lung, phóng dật, giải đãi nữa ?

Tỳ-khưu Sammajjana mỉm cười, gật đầu nhẹ :

– Đúng vậy! Cảm ơn chư tôn giả!

Thấy cách nói của tỳ-khưu Sammajjana như thầm xác nhận mình là một vị thánh, các vị tỳ-khưu kia mang việc ấy trình lên đức Phật – thì ngài nói:

– Quả vậy ! Con trai của Như Lai giờ đây không còn lăng xăng, giải đãi… nữa đâu; ông ta sống an tịnh, thọ hưởng lạc của thiền, lạc của quả vậy!

Rồi đức Phật đọc một câu kệ ngôn:

– Trước kia phóng túng, mê mờ
Ngày sau tỉnh niệm hướng bờ giác xa
Đưa tay vén đám mây qua
Vầng trăng ló dạng, nguy nga hạ huyền!

 

Lúc tuổi đã khá cao, trưởng lão Revata gặp một chuyện chẳng may. Số là hôm ấy từ rừng xa, muốn về Kỳ Viên để đảnh lễ đức Phật, khi chưa đến nơi, thấy trời tối, ngài bèn trú ngụ trong một khu rừng gần kinh thành. Đêm ấy, có một tên trộm bị lính rượt đuổi, đến gần chỗ trú ngụ của ngài, tên trộm quăng tang vật ở đấy rồi chạy trốn. Thấy tang vật, thấy người – là một sa-môn – quân lính không dám xét hỏi, chỉ bắt ngài rồi dẫn về triều chờ lệnh đức vua.

Thấy một vị trưởng lão cốt cách trang nghiêm, phong thái uy nghi, đức vua Pāsenadi tha tội, bảo quân hầu ra hết rồi nói chuyện với ngài:

Vua chấp tay rồi nói :

– Thấy tăng tướng của trưởng lão, trẫm không dám nghĩ là trưởng lão đã lấy cắp! Chắc phải có một lý do nào khác? Trước mọi người, trẫm đã tuyên bố là trưởng lão vô tội rồi. Vậy trưỡng lão hãy nói nhỏ cho trẫm nghe lý do cũng được!

Trước mối oan khuất này, đáng lý ra là chỉ cần nói là không, chỉ do tên trộm tẩu tán bỏ lại; nhưng trưởng lão khởi tâm bi hùng, cất tiếng rống của con mãnh sư, đọc luôn liên tiếp 14 bài kệ ngôn, tạm diễn ý trọn vẹn như sau:

– Tuổi thanh xuân lìa cắt
Bó nhà, sống không nhà
Suốt gần cả đời qua
Chưa một lần nóng giận
Chưa một lần khởi sân
Không hề có tâm hại
Lại càng không sát hại
Làm khổ chúng hữu tình
Chỉ sống với tâm từ
Với các tâm vô lượng
Thân tình với tất cả
Từ mẫn loài hữu tình
Ta thường khéo an trú
Với tâm không dao động
Ta thường hư không trú
Ta thường với phạm trú
Im lặng của bậc Thánh
Xứng đáng là đệ tử
Đức Phật Gotama
Như núi đá đứng vững
Vô minh diệt, si diệt
Ta không còn uế nhiễm
Luôn giữ sự trong sạch
Tội nhẹ như sợi tóc
Xem nặng tợ nghìn cân
Tội nhẹ như mây khói
Xem nặng bằng Tu Di
Thành trì ta kiên cố
Phòng hộ cả trong ngoài
Luôn phòng hộ tự ngã
Từng sát-na, sát-na!
Sự sống, ta chẳng mê
Sự chết, ta chẳng ngại
Đợi chờ tử thần đến
Như thợ làm xong việc
Sự sống, ta chẳng thích
Sự chết, ta chẳng màng
Chờ đợi thời gian đến
Tỉnh giác, giữ chánh niệm
Lời đức Đạo Sư dạy
Giờ ta đã làm xong
Gánh nặng đã đặt xuống
Nhổ sạch mọi sanh hữu
Bỏ nhà, sống không nhà
Và mục đích xuất gia
Giờ ta đã đạt được
Mọi kiết sử diệt tận
Nỗ lực chớ phóng dật
Là lời ta giáo giới
Ta sẽ đại viên tịch
Lìa thoát mọi sanh y!

Kệ ngôn vừa chấm dứt, trưởng lão Revata chợt bay ra ngoài cung điện, ngồi tréo chân kiết già giữa hư không, nhiếp tâm đề mục lửa, ngọn lửa phát ra thiêu xác thân ngài rồi tàn tro cũng như xá-lợi rải rác rơi giữa không gian…

Đức vua Pāsenadi quỳ sụp xuống, chấp tay lạy giữa hư không, thầm sám hối mình đã nghi oan cho một bậc thánh lậu tận…

Thế là thêm một bậc thánh lậu tận, suốt thời gian còn là sa-di, từ lúc 7 tuổi đến 20 tuổi – do đức hạnh và trí tuệ nên đã được đại chúng tôn gọi là sa-di trưởng lão.

 

(Trích: Trưởng Lão Sa-di)

 

MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH